Mõ Làng: Tiếp sau chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã đến thăm và hội kiến Giáo hoàng Francis.
Giáo hoàng Francis hoan nghênh việc thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo đạt nhiều kết quả của Việt Nam và khẳng định, Tòa thánh Vatican luôn chủ trương phát triển quan hệ tốt đẹp với Việt Nam, tiếp tục ủng hộ Giáo hội Công giáo Việt Nam tham gia tích cực vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.
Giáo hoàng Francis nhấn mạnh phải thực hiện tốt hơn nữa đường hướng "sống Phúc âm giữa lòng dân tộc," "giáo dân tốt phải là công dân tốt", "người Công giáo Việt Nam phải đồng hành cùng dân tộc Việt Nam xây dựng đất nước ấm no, hạnh phúc", "người Công giáo Việt Nam phải là người yêu nước."
Vậy nhưng, quan sát trong mấy năm gần đây, một số tổ chức cơ sở giáo hội, giáo sĩ và giáo dân Công giáo đã có những hoạt động đi ngược lại lợi ích dân tộc, chống đối nhà nước như kiểu Thái Hà, Nghi Phương, như một số giám mục, linh mục cự đoan, như sự thật có đến hơn 70% những người bị pháp luật truy tố tội tuyên truyền chống nhà nước, âm nưu lật đổ chính quyền là tín đồ Công giáo. Điều đó chứng tỏ chưa có sự đồng thuận về tư tưởng giữa Giáo hội và Nhà nước.
Để cho Giáo hội Công giáo thực sự đồng hành cùng dân tộc, cần phải có nỗ lực từ hai phía Nhà nước và Giáo hội. Nhân đây, xin giới thiệu bài viết của GS.TS Đỗ Quang Hưng về vấn đề "Công giáo và dân tộc ở nước ta trong bối cảnh đất nước quá độ đi lên CNXH".
*****
Khi nghiên cứu đời sống Công giáo ở nước ta hiện nay, có thể nói vấn đề Công giáo và Dân tộc vẫn là một trong những vấn đề cơ bản nhất.
Sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, khi đất nước đã thống nhất, cả nước bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, nói đúng hơn là bước vào chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1996 đến nay, cả dân tộc ta đang tiến mạnh trên chặng thứ hai của thời kỳ quá độ XHCN, đó là giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà Đại hội X (2006) của Đảng ta dự kiến sẽ kéo dài đến 2020.
Nếu so với giai đoạn cách mạng Dân tộc Dân chủ, chuyển qua giai đoạn cách mạng XHCN, theo chúng tôi, nội dung và sự biểu hiện của mối quan hệ giữa Công giáo và Dân tộc, mặc dù có những thay đổi to lớn nhưng vẫn giữ những “mẫu số chung” của vấn đề.
Bài này, bước đầu chúng tôi muốn làm rõ vấn đề, những chuyển biến của mối quan hệ ấy, với một số nội dung sau:
1. Đặc điểm của mối quan hệ Công giáo và Dân tộc ở nước ta.
2. Kitô giáo và chủ nghĩa Mác, cái nhìn mới về lý thuyết.
3. Công giáo và Dân tộc ở nước ta trong bước đi đầu tiên của chủ nghĩa xã hội.
4. Mấy vấn đề phía trước.
Dưới đây, chúng tôi lần lượt đi vào những nội dung đó.
*
* *
1. Đặc điểm của mối quan hệ Công giáo và Dân tộc ở nước ta
a) Sau nhiều thế kỷ truyền giáo, đến 1997, số tín đồ Công giáo ở châu Á là 103.230.000 người, chiếm 2,9% dân số châu lục. Còn Tin lành khó có con số chính xác, ước tính khoảng 1%. Như vậy số Kitô hữu ở châu Á có số lượng tương đương với châu Phi, trong khi dân số ở đây đông gấp 5 lần.
Đặc điểm chung của Cộng đồng kitô hữu ở Châu Á, như nhận xét của C. Prudhomme và J.F.Zorn là “một cộng đồng thiểu số mong manh, dễ rạn vỡ, nhưng lại có tầm quan trọng đáng kể với Giáo hội”[1].
Còn có nhận xét rằng: Cộng đồng nhỏ bé ấy, để có thể tồn tại, thường phải co cụm lại trong môi trường đối nghịch về văn hoá, về tôn giáo lại là nơi đa số dân chúng thuộc về Phật giáo, Hồi giáo, Ấn độ giáo, Đạo giáo ...
Các cộng đồng Kitô ấy, trừ Philippin là một ngoại lệ, vì thế, như đứng ngoài lề (marginale), khiến A. Forest dùng hình ảnh “tế báo hoá” (l’encellulement) để mô tả chúng, với một kích thước vừa đủ để tự sinh sản trong thế sống khép mình.
Lẽ di nhiên không phải ở nước nào thuộc Châu Á cũng vậy. Hai tác giả trên đi đến một nhận xét đáng chú ý: “Những vấn đề đặt ra sau chiến tranh thế giới thứ II, trước sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa Cộng sản và những điều kiện chính trị xã hội bất lợi khác đã đặt phần lớn các Giáo hội Kitô ở Châu Á phải thích nghi với cơ cấu được kế thừa từ thời kỳ truyền giáo. Tất cả phải học cách thoả hiệp với môi trường chính trị, xã hội và văn hoá, các học thuyết tôn giáo hoặc triết học vốn rất khác biệt với truyền thống Kitô giáo” (C.Prudhomme, J.F. Zorn, đã dẫn, tr. 669).
Nhưng cũng phải nói rằng, dù sao, trong mối quan hệ Nhà nước và các Giáo hội Kitô giáo ở Châu Á, cuối cùng cũng có được một “chiến thắng sự nghi ngờ đối với một tôn giáo ngoại nhập”[2], như nhận định của 2 tác giả trên. Ở Trung Quốc từ 1982, Việt Nam (1990), Campuchia 1993, Lào 1997… với những chuyển biến mạnh về luật pháp liên quan đến quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng đã tạo nên cục diện mới mẻ này.
b) Đối chiếu với tình hình cộng đồng Công giáo ở Việt Nam, chúng tôi muốn đề cập một số đặc điểm chính sau đây của mối quan hệ Công giáo và Dân tộc:
- Thứ nhất, du nhập gần như trùng khít với quá trình thăm dò và xâm chiếm thuộc địa, cũng giống như nhiều xã hội châu Á, đạo Công giáo hay ít nhất ở một bộ phận quan trọng là giới chủ chăn không thể tránh khỏi bị lên án là dính líu, đống lõa với chủ nghĩa thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta.
Mặt khác, Việt Nam lại là nước đi đầu trong giải thể chủ nghĩa thực dân cũ (Pháp) và mới (Mỹ), cũng lại là nước kiên định mục tiêu CNXH vì thế mối quan hệ Công giáo và Dân tộc luôn diễn ra trên nền bối cảnh lịch sử lâu dài nhiều xung đột, xen lẫn không ít nghịch lý. Vì thể, mối quan hệ Dân tộc và Công giáo đến nay vẫn là mối quan hệ nổi bật trong quan hệ Đạo - Đời.
- Thứ hai, nếu xét mối quan hệ này trong tổng thể quan hệ Nhà nước - Giáo hội thì Việt Nam cũng là trường hợp phong phú, phức tạp bậc nhất ở châu Á.
Tôi không đồng ý với quan điểm cho rằng: Ở Việt Nam, thực chất vấn đề dân tộc là xung đột Công giáo với các Nhà nước phong kiến và sau đó là xung đột Công giáo - Cộng sản!
Quan hệ Công giáo và Dân tộc, Công giáo và Cộng sản ở Việt Nam 1954 - 1975 là một trường hợp hy hữu. Một bản đồ địa - Công giáo thay đổi hoàn toàn, tập trung đến 7/9 giáo hữu ở miềm Nam và chính quyền Ngô Đình Diệm là một chế độ dựa trên Công giáo, kỳ thị tôn giáo và chống Cộng sản.
Khung cảnh chính trị - xã hội ấy, khiến cho mối quan hệ Công giáo - Dân tộc ở nước ta còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác, tôn giáo xen lẫn ý thức hệ chính trị, văn hoá và tâm lý.
- Thứ ba, nhưng Việt Nam lại không phải Philippin. Một đất nước mà chủ nghĩa dân tộc “như một động lực lịch sử” (Nguyễn Ái Quốc, 1924). Vì thế, mọi tầng lớp xã hội, mọi tôn giáo, dù thế nào cũng biết gìn giữ và phát huy “căn tính dân tộc”. Dù bị xô đẩy vào phía đối lập với phong trào dân tộc, trong công đồng giáo hữu, không khi nào chấm dứt phong trào yêu nước, đến nỗi có ý kiến chí lý rằng “Đồng hành với dân tộc” có lẽ là nét nổi trội trong thần học Công giáo ở Việt Nam.
Ngay ở những trạng huống mang tính bi kịch, cuối thế kỷ XIX, khi các Văn thân yêu nước đồng nhất việc Bình Tây với Sát Tả, thì cũng không vì thế thổi bùng lên cuộc “chiến tranh tôn giáo” mà ở một số quốc gia, trong điều kiện tương tự đã xảy ra.
Chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa yêu nước luôn luôn là một mẫu số chung, một động lực để người Việt Nam, Kitô hữu hoặc ngoài Kitô hữu giải quyết những xung đột, khúc mắc và hướng đến những mục tiêu chung, lớn lao liên quan đến vận mệnh cả dân tộc, đất nước.
- Thứ tư, khi xét mối quan hệ này trong “môi trường xã hội chủ nghĩa”, Việt Nam cũng lại khác Trung Quốc. Nếu như ở Trung Quốc, cộng đồng Kitô hữu với chính sách Tam tự lập, trở nên “bất bình thường” trong đời sống tôn giáo của cả cộng đồng Công giáo thế giới, nếu không muốn nói tình trạng “hai Giáo hội”.
Trong khi đó, với Sắc lệnh 234 - SL (14/6/1955), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố quan hệ giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam với Toà thành Vatican là “quan hệ nội bộ” mà chính phủ Việt Nam DCCH luôn tôn trọng.
Sau này, cùng với sự Đổi mới đất nước, khi Đảng tự xác định: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành của lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc” (Điều lệ, Đại hội IX), thì mối quan hệ Công giáo - Dân tộc trong “môi trường XHCN” ở nước ta càng đậm nét một đặc điểm mới đang lộ rõ: Khi dân tộc trở thành “dân tộc XHCN” thì cộng động Công giáo vẫn hoàn toàn có chỗ đứng xứng đáng.
Trên đây là một số đặc điểm mối quan hệ Công giáo và Dân tộc ở nước ta. Những đặc điểm ấy có thể soi rọi vấn đề mà chúng tôi đang đề cập.
2. Kitô giáo và chủ nghĩa Mác, cái nhìn mới về lý thuyết
Ở nước ta, không có cuộc đối thoại Công giáo và Cộng sản theo nghĩa đen của nó. Nghĩa là những cuộc đối thoại kiểu “Hội nghị bàn tròn” như các cuộc đối thoại ở thập kỷ 60, 70 của những người mácxít Pháp với các trí thức Công giáo.
Trong những cuộc đối thoại “không chính thức”, nghĩa là qua sách vở và các phương tiện thông tin đại chúng khác, người ta chỉ thấy chủ yếu là các vấn đề chính trị – tôn giáo, rất ít các vấn đề thuộc địa hạt triết học, thần học.
Trong những thập kỷ gần đây, trong bối cảnh mới, quan hệ giữa Công giáo và Cộng sản đã có nhiều thay đổi. Đã có những cuộc đối thoại, nghiên cứu từ phía những trí thức Kitô giáo với những người mácxít diễn ra theo những chiều hướng khác, sâu sắc và toàn diện hơn.
Sau gần 7 thập kỷ đối đầu quyết liệt, dường như cả 2 bên đều quan tâm nghiên cứu về nhau, nghiêm túc hơn, có sự xích lại trên một số phương diện triết học và không cần coi việc loại bỏ nhau là điều kiện tiên quyết.
Có tác giả đã có được cái nhìn khái quát cuộc đối thoại giữa người mácxít và người Kitô giáo suốt khoảng 70 năm qua. Người ta vẫn khẳng định 4 điểm cơ bản về sự khác biệt giữa 2 khuynh hướng tư tưởng triết học này là:
· Một nội dung khoa học cơ bản của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó bao gồm sự giải thích hoàn toàn tự nhiên về con đường mà xã hội loài người làm chủ và một viễn cảnh giải phóng mà xã hội con người xây dựng.
Trong khi ấy, “quan điểm lịch sử” của Kitô giáo nhìn chung lại là của Thiên Chúa trong suốt chiều dài lịch sử và một kết cục lịch sử từ bên ngoài tiến trình tự nhiên của nó.
· Phê phán và kế thừa Phơbách trong việc coi chủ nghĩa vô thần không chỉ đúng về lôgic, mà còn có ý nghĩa giải phóng con người, thậm chí can dự vào nền chính trị thế tục, xây dựng xã hội loài người phi thần thánh. Trong khi đó, Kitô giáo không thể không coi vũ trụ như quá trìnhtạo dựng của Thiên Chúa.
· Cũng như Neitzsche và Freud, Mác là “bậc thầy của sự hồ nghi”. Với các nhân vật ấy thì các hệ tư tưởng ngoài khoa học đều là sự phản ánh giai cấp xã hội hơn là sự phản ánh chân lý. Tôn giáo cũng chỉ là một trong những tập hợp tư tưởng ngoài khoa học như thế.
· Cuối cùng, có một sự đối lập về mặt đạo đức. Chúa Kitô hứa hẹn đưa cái Xấu thành điều Tốt. Còn Mác thì chống lại cái Xấu cả bằng bạo lực khi cần thiết”[3].
Thực ra “4 điều cơ bản của sự đối lập” mà tác giả nêu trên dù sâu sắc, bao quát, nhưng chưa phản ánh hết sự nhận thức về chủ nghĩa Mác của những người mácxít hôm nay. Thí dụ, về vai trò và đặc biệt về quan hệ giữa chủ nghĩa vô thần và các hệ tư tưởng tôn giáo. Tình hình hiện nay cũng không còn sự “rạch ròi”, phủ định nhau như trong điểm thứ hai mà Andrew Collier nêu trên.
Tuy vậy, cái đáng nói là Andrew Collier sau khi lập sơ đồ phân tích khả năng qui tụ của 2 hệ tư tưởng này, đối chiếu với xã hội tư bản hiện đại, đã đi đến kết luận: chính Kitô giáo và chủ nghĩa Mác có nhiều điểm chung hơn so với chủ nghĩa tự do (Libéralism) hay chủ nghĩa phi tôn giáo mới (Néo- paganism), là những gần gũi với xã hội tư bản hậu công nghiệp hiện nay.
Tác giả kết luận: “Tôi cố gắng chỉ ra những gì mà những người theo chủ nghĩa Mác và những người Kitô giáo có thể học hỏi lẫn nhau. Tôi không chỉ muốn nói rằng, những người mác xít nên học niềm tin và người Kitô giáo nên học chủ nghĩa Cộng sản và tôi hy vọng vào kết quả đó. Tôi cũng muốn nói rằng, kết quả của sự gặp gỡ ấy sẽ có những người Kitô giáo có thể học hỏi để học làm người Kitô giáo tốt hơn và những người mácxít cũng hỏi để thành người cộng sản tốt hơn”[4].
Trong bối cảnh hiện nay điều này càng có ý nghĩa với chủ đề của chúng ta hôm nay.
Đương nhiên là chúng tôi luôn nhớ những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở thập kỷ 30 - 40 khi người đã tìm ra cái mẫu số chung, cái hằng số trong quan hệ Đạo - Đời, quan hệ mác xít và hệ tự tưởng tôn giáo cũng như những ý kiến độc đáo của Fidel Castro ở thập kỷ 70 về sự gần gũi giữa đạo đức của chủ nghĩa Cộng sản và luân lý Kitô giáo của Bài giảng trên núi của Chúa Giêsu Kitô, sự gần gũi cao hơn nhiều so với đạo đức của chủ nghĩa tư bản (xem Fidel bàn về tôn giáo, bản dịch, 1988, NXB TP.Hồ Chí Minh).
Từ sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ (1990 - 1991), hệ thống XHCN tan rã và lâm vào khủng hoảng, mặc dù vậy, nhiều trí thức Công giáo vấn muốn đi tiếp những suy nghĩ của mình. Nhà xã hội học tôn giáo quen biết người Bỉ, F. Houtart đã có bộc lộ quan điểm của mình về phương pháp “Phúc Âm theo lối Mác”. Khi được hỏi, quan điểm “duy vật” của ông về truyền bá Phúc Âm ấy hôm nay có còn thích hợp, khi hệ thống XHCN đã sụp đổ, F. Houtart vẫn khẳng định rất chí lý: “có chứ!” Với điều kiện đừng biến hệ thống lý luận mác xít ấy thành giáo điều...” [5]
Có thể nói, không chỉ từ phía những người mác xít Việt Nam hôm nay, mà từ phía các trí thức Công giáo trên thế giới, vẫn đang chảy một dòng tư tưởng, tìm đến sự gặp gỡ của những giá trị tư tưởng và phương pháp đích thực của hai hệ tư tưởng ấy. Điều đó, hẳn rất có ích cho cái nhìn, cho ứng xử của chúng ta hôm nay.
(xem tiếp phần 2)
Comments[ 0 ]
Post a Comment